Tin tức

Ngự tiền học sinh từng được thờ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám

Trong lịch sử, có một vị Ngự tiền học sinh từng được tòng tự ở Văn Miếu, thờ chung với Chu Văn An và Trương Hán Siêu nhưng đời sau thấy không xứng nên tước bỏ.

Đó là nhà khoa bảng Đỗ Tử Bình - vị Ngự tiền học sinh (tương đương Tiến sĩ) đời nhà Trần, người gắn liền với nghi án “biển thủ 10 mâm vàng” của chúa Chiêm Thành Chế Bồng Nga dâng vua Trần.

Gắn với cuộc chiến Chiêm Thành

Đỗ Tử Bình sinh năm Giáp Tý (1324) đời vua Trần Minh Tông, người trang Phúc Hưng, huyện Thần Khê, phủ Long Hưng (nay thuộc xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình). Do những vết mờ trong sự nghiệp quan trường của ông đã dẫn đến việc trong một thời gian dài, sử sách khẳng định không rõ quê quán Đỗ Tử Bình ở đâu.

Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” dẫn từ sách “An Nam chí” của Cao Hùng Trưng nhà Minh và nêu giả thuyết, có thể Đỗ Tử Bình là người huyện Cổ Lan, tức là Đông Quan, thuộc tỉnh Nam Định. Tuy nhiên, theo thần phả trong di tích đền Thái bảo Đỗ Tử Bình thì quê quán của ông là Thái Bình.

Các tư liệu cũng cho biết, cha của Đỗ Tử Bình là Đỗ Thiên Thư - một đại quan trong triều đình nhà Trần, quê gốc ở Hà Tràng, huyện Giáp Sơn (nay thuộc xã Lạc Long, Kinh Môn, Hải Dương). Vì liên quan trong việc hình án không nghiêm nên bị biếm chức cho về trang Phúc Hưng, được giao đất và khai khẩn, mở mang ấp Long Khê, để lại nhiều ân đức cho địa phương.

Thuở nhỏ, Đỗ Tử Bình ham học, học giỏi. Thời vua Trần Dụ Tông, ông được vua khảo hạch cho đỗ Ngự tiền học sinh vào năm 1346 khi ông 22 tuổi. Sau khi thi đỗ, ông được bổ vào viện Hàn lâm làm Thị giảng (1348) rồi giữ việc ở Xu mật (1359). Năm 1362 thăng làm Đồng tri Môn hạ sảnh, Đỗ Tử Bình được làm phó tướng cho Trần Thế Hưng đi đánh Chiêm Thành.

Nguồn sử ghi rằng, năm 1362 biên giới phía Nam bắt đầu căng thẳng. Đỗ Tử Bình theo lệnh của Trần Dụ Tông đi duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hóa và đắp thành Hóa Châu. Năm 1367 vua Trần Dụ Tông cử Trần Thế Hưng làm Thống quân hành khiển đồng tri, Đỗ Tử Bình làm phó, mang quân đi đánh Chiêm Thành.

Tháng 4 âm lịch năm 1368, quân Trần tiến vào Chiêm Động (Quảng Nam). Quân Chiêm đặt phục binh, quân Trần rơi vào chỗ phục kích, bị thua trận. Trần Thế Hưng bị bắt, Đỗ Tử Bình chạy thoát, mang tàn quân chạy về nước.

Năm 1376, vào thời vua Trần Duệ Tông trị vì, vua Chiêm Thành khi đó là Chế Bồng Nga mang quân xâm lấn Đại Việt. Vì thế, vua Trần Duệ Tông đã sai Đỗ Tử Bình cầm quân đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi trước khí thế của quân Đại Việt và xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Nhưng Tử Bình giấu vàng đi và tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Vì thế, vua Trần Duệ Tông đã nổi giận và quyết định thân chinh đi đánh.

Tháng Giêng năm 1377, quân Trần tiến tới kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ngoài thành, rồi cho người đến trá hàng và nói với Trần Duệ Tông rằng Chế Bồng Nga đã bỏ thành trốn.

Nghe vậy, Trần Duệ Tông thúc quân tiến vào thành. Sau đó, quân Chiêm tứ phía phục binh đổ ra đánh. Quân Đại Việt không chống cự nổi, vua Trần Duệ Tông bị hãm trong vòng vây, rồi bị trúng tên và tử trận. Các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Hành khiển Phạm Huyền Linh cũng tử trận.

Tượng thờ Thái bảo Đỗ Tử Bình.

Vua cho phối thờ, thân sĩ tước bỏ

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” mô tả rằng, Đỗ Tử Bình lúc đó lĩnh hậu quân không tới cứu ứng vua Trần Duệ Tông. Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) cũng sợ hãi bỏ chạy. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông sai đem chiếc xe tù đi bắt Tử Bình. Khi Tử Bình về qua phủ Thiên Trường, người ta đua nhau chửi mắng, lấy gạch ngói ném vào xe tù Tử Bình.

Thượng hoàng xuống chiếu trị tội nhưng miễn tử hình cho ông, chỉ bắt đi làm lính. Tuy nhiên không lâu sau, ông lại được phục chức. Tháng 5/1378, Chế Bồng Nga đưa hàng vương Trần Húc về nước, đánh cướp ở vùng Nghệ An.

Tháng 6, quân Chiêm tiến vào cửa Đại Hoàng. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phục chức cho Đỗ Tử Bình, sai ra chống giữ. Tử Bình đánh không lại và Chế Bồng Nga tiến vào Thăng Long lần thứ 3, bắt người cướp của rồi rút về.

Năm 1380, vua Chiêm lại dụ dân Tân Bình và Thuận Hóa đi cướp phá Nghệ An và tiến lên Thanh Hóa. Thượng hoàng Nghệ Tông lại sai Lê Quý Ly lĩnh quân thủy và Đỗ Tử Bình dẫn quân bộ ra chống. Tới tháng 5, quân Chiêm không đánh được phải rút lui.

Từ sau trận đánh này, Đỗ Tử Bình cáo ốm, xin rút lui không giữ binh quyền nữa. Tháng 11 năm đó, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phong ông làm Nhập nội hành khiển Tả tham tri chính sự, lĩnh chức Kinh lược sứ Lạng Giang.

Sau khi nhận phong Nhập nội hành khiển tả tham tri chính sự được vài năm thì Đỗ Tử Bình chết. Cuộc đời ông hoạt động trong khoảng hơn 30 năm, trải qua 4 đời vua, từ thời Trần Dụ Tông đến Trần Phế Đế.

Ông được vua Trần Nghệ Tông truy tặng làm Thiếu bảo và cho ông được tòng tự ở Văn Miếu, thờ chung với Chu Văn An và Trương Hán Siêu. Nhưng về sau, các thân sĩ không đồng tình với quyết định của vua Nghệ Tông nên tước bỏ Đỗ Tử Bình ra khỏi Văn Miếu.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” có nhận xét rằng: “Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu, Đỗ Tử Bình được dự vào đó... Tử Bình là hạng học nhảm chiều người, tham lam bòn vét, là kẻ gian thần hại nước, sao lại được len vào chỗ đó?”.

Mặc dù vậy, ông vẫn được dân làng Hưng Tứ tôn làm Phúc thần. Các triều đại Lê, Nguyễn đều có sắc phong chuẩn cho dân làng Hưng Tứ thờ phụng và được phong làm Thành hoàng làng. Ngày nay đền Thái bảo Đỗ Tử Bình tại xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1999, là một quần thể di tích thu hút nhiều khách thập phương.

Sắc phong được bảo lưu tại đền thờ Thái bảo Đỗ Tử Bình.

Dấu hỏi lớn về 10 mâm vàng

Vào tháng 6/2024, UBND Thái Bình phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học chủ đề “Trần triều Thái bảo Đỗ Tử Bình - thân thế và sự nghiệp”, đã đưa ra nhiều góc nhìn, giả thuyết, phần nào làm sáng tỏ nghi án “biển thủ 10 mâm vàng” - vốn là vết đen khó rửa trong sự nghiệp quan trường của Đỗ Tử Bình.

“Đại Việt sử ký toàn thư” có lời của Ngô Sĩ Liên đánh giá khá nặng nề: “Tử Bình lén đánh cắp vàng cống của Bồng Nga, tâu bậy lừa vua, để đến nỗi Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về nữa, nước nhà từ đó liên tiếp có tai họa Chiêm Thành vào cướp, tội ấy giết cũng chưa đáng, còn học nhảm chiều người thì chê trách làm gì?”.

Hay vào thời Nguyễn, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” có nhận định rằng: “Tử Bình là người không học theo chính đạo, chỉ a dua với đời, lại hay bày đặt thuế khóa bắt dân đóng góp nặng để nịnh hót người trên; cho nên được nhà vua tin dùng. Từ khi Tử Bình đi đánh Chiêm Thành không nên công trạng gì...”.

GS.TSKH Vũ Minh Giang - Chủ tịch Hội đồng Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, việc chứng minh Đỗ Tử Bình “biển thủ 10 mâm vàng” cần phải dựa trên nhiều nguồn tư liệu, để đối chiếu, so sánh, phân tích, lý giải tìm ra nội dung hợp lý, chứ không thể chỉ dựa trên một nguồn thông tin để kết luận.

PGS.TS Đỗ Bang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho rằng, việc Đỗ Tử Bình nhận 10 mâm vàng của Chế Bồng Nga rồi giấu đi vẫn là một nghi án chính trị phi lý trong lịch sử triều Trần, bởi cống phẩm theo định lượng mâm vàng là chưa có tiền lệ.

GS.TS Đinh Khắc Thuân - Viện Trần Nhân Tông (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã đưa ra những lập luận, phân tích về văn bản học và giả định: Thời gian Đỗ Tử Bình vào Hóa Châu trước năm 1376 này có ba lần (năm Nhâm Dần 1362, năm Đinh Mùi 1367, năm Nhâm Tý 1372). Những lần này đều cách xa thời điểm vua quyết định chinh phạt Chiêm Thành năm 1376.

“Nếu có biếu vàng thì đó không phải là lễ cống nạp. Bởi lệ cống nạp không phải bằng vàng mà bằng sản vật địa phương. Mặt khác, nếu 10 mâm vàng dâng lên vua mà bị Đỗ Tử Bình giấu đi thì tội rất nặng, lập tức bị trừng trị, chứ không thể được đi hộ tống vua ra trận. Hơn nữa, đoạn chép này không phải biên niên sự kiện mà liên tưởng đến sự kiện từng xảy ra trước đó. Thực tế, trong bộ quốc sử “Đại Việt sử ký toàn thư” không phải không có nhầm lẫn”, GS.TS Đinh Khắc Thuân nhận định.

Cũng theo ông Thuân, nếu vì 10 mâm vàng mà dối vua để vua phải thân chinh ra trận, dẫn đến thiệt mạng, thì tội của Đỗ Tử Bình không hề nhỏ. Tuy nhiên, ông chỉ bị khép tội Hoành nhi, cho về quê làm ruộng, và chỉ một thời gian rất ngắn, ông đã được gọi về triều phục chức Hành khiển, chỉ huy quân chống lại Chiêm Thành giành thắng lợi vào năm 1378 và đến năm 1380 giữ chức Nhập nội hành khiển, Tả tham tri chính sự lãnh Lạng Giang Kinh lược sứ.

Giới nghiên cứu cũng nhìn nhận, đánh giá tài năng của Đỗ Tử Bình khi được giao trị nhậm ở những vùng đất trọng yếu, nơi biên ải như thành Hóa Châu - với vai trò quan trọng trong chiến lược phòng thủ, tấn công, bảo vệ và mở rộng lãnh thổ của Đại Việt, đặc biệt là có ý nghĩa đối với sự an nguy của kinh thành Thăng Long.

Bởi vậy, để đánh giá một cách chính xác về cuộc đời và sự nghiệp của nhà khoa bảng - Ngự tiền học sinh - Thái bảo Đỗ Tử Bình thì cần phải tiếp tục nghiên cứu, có những bằng chứng xác thực, mới có thể đi đến kết luận cuối cùng.