TOP 23 bài Thuyết minh về con trâu Việt Nam SIÊU HAY, ấn tượng nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích về nguồn gốc, đặc điểm, lợi ích của con trâu để viết bài văn thuyết minh thật hay.
Con trâu từ lâu đã trở thành hình ảnh vô cùng quen thuộc với cuộc sống lao động của người nông dân Việt Nam. Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng, lông màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để có thêm vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.
I. Mở bài
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
2. Lợi ích của con trâu:
a. Trong đời sống vật chất:
b. Trong đời sống tinh thần:
- Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trườngYêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:“Ai bảo chăn trâu là khổ ?”Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
- Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
III. Kết bài
.....
Hình ảnh làng quê Việt Nam gắn liền với cánh cò bay lả bay la, với dòng sông vắt ngang qua mơ màng, với khói lam chiều từ ống bếp nhà ai đầy mờ ảo. Và có một biểu tượng quen thuộc cho nét thanh bình của vùng đất nông thôn. Đó chính là con trâu.
Trâu Việt Nam vốn có gốc gác từ loại trâu rừng, sống hoang dã, sau đó được con người thuần hóa và dần dần thân thiết như bây giờ và đa phần chúng đều thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bởi vậy chúng ta vẫn hay bắt gặp chúng đằm mình thư thái trong các đầm hoặc những quãng sông nông. Trâu thuộc loài lớp thú, động vật có vú. Màu đặc trưng của nó là màu xám đen, khác hẳn với bò là màu vàng nâu dù cả hai là họ hàng với nhau. Trâu có một thân hình vạm vỡ như một thanh niên trai tráng nhưng chiều cao lại thấp. Chiếc bụng của nó phình ra to hơn cả thân hình. Lúc nó đi cái bụng cứ ngúc nga ngúc nguẩy. Trên đầu của nó có một chiếc sừng ngắn, hình lưỡi liềm. Điều đặc biệt là trâu không có hàm răng trên. Nó gắn với câu chuyện của dân gian "Trí khôn của ta đây", vì trâu mải lăn ra cười mà va phải tảng đá nên gãy hết răng. Đó chỉ là cách lý giải vui nhộn còn theo sự nghiên cứu khoa học, hàm trên của trâu đã được thay bằng một tấm nệm để thuận tiện hơn trong quá trình xử lí thức ăn. Trâu cũng là loài động vật nhai lại và sức ăn cũng như sức chứa của nó khá là lớn. Trâu sinh sản không nhiều, hai năm mới có một đứa hoặc ba năm được hai đứa là nhiều bởi thời gian mang thai của nó rất dài thường rơi vào khoảng hơn ba trăm ngày.
Trâu đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người nông dân. Từ sáng sớm tinh mơ, nó đã cùng các chú các bác ra đồng làm việc. Trâu có sức kéo tốt nên thường phụ trách công việc cày bừa. Những đồng ruộng trở nên tơi xốp hơn dưới đường cày của trâu. Ngoài ra chúng còn giúp người dân kéo một số đồ dùng. Thịt trâu cũng là một thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, là nguyên liệu quan trọng của nhiều món ăn. Thịt trâu còn được coi là đặc sản với giá thành không hề rẻ. Trâu còn cung cấp da, sừng để làm đồ thủ công mỹ nghệ trưng bày trong nhà cửa. Chính vì những tác dụng của nó, trâu được coi là người bạn, là tài sản quý mà người nông dân dày công chăm sóc. Xét đến cùng, trâu đem đến cho gia đình ở vùng quê thôn dã những giá trị kinh tế để cải thiện đời sống.
Nhưng đâu chỉ có thế, trâu còn là người bạn của những đứa trẻ, của những chú mục đồng. Hình ảnh chú bé ngồi vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo đã đi vào trong bao bài thơ, câu ca, bức tranh, là nguồn cảm hứng khơi gợi cho văn chương nghệ thuật. Nhân dân còn tổ chức lễ hội chọi trâu thu hút rất nhiều khách du lịch. Trâu đi vào tâm linh, văn hóa của người Việt. Và trong lần đăng cai SEA Game 22, Việt Nam đã chọn con trâu vàng làm biểu tượng linh vật.
Để chăm sóc một con trâu vừa dễ cũng vừa khó. Thức ăn cho trâu đa số là cỏ nhưng chúng không phải loài động vật ngắn hạn như vịt gà mà nuôi một con trâu trung bình phải mất vài năm. Người dân cũng phải chú ý tiêm phòng đầy đủ, khi có dấu hiệu ốm phải gọi bác sĩ thú ý đến kiểm tra. Những mùa mưa rét, gió bão những người nông dân lại kiếm rơm rạ, dự trữ thức ăn để bảo vệ gia súc quý giá của mình.
Con trâu vẫn luôn là người bạn, một tài sản mà người nông dân Việt Nam luôn trân quý!
Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 - 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 - 3 sào.
Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 - 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.
Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.
Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.
Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi "ông trâu" trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.
Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.
Nhắc đến con trâu chúng ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ. Trên những cánh đồng chúng ta bắt gặp hình ảnh con trâu cần mẫn kéo cày. Có thể nói con trâu gắn bó thân thiết với người nông dân Việt Nam: Con trâu - là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú - loài động vật này chủ yếu vào việc cày kéo.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám hoặc xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp ngắn bụng to, mông đốc, bầu vú nhơ, sừng có hình lưỡi liềm. Ngày xưa, người ta phân biệt trâu lành hay trâu dữ là một phần nhờ vào đôi sừng trên chỏm đầu: Sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm cùng cặp mắt to dữ thì phải coi chừng và có biện pháp thuần phục. Nếu trâu cái trung bình từ 350 - 400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400 - 450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành.
Không chỉ có thế con trâu còn có một vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi bao đời nay. Chính vì vậy nó là một phần không thể thiếu của người nông dân. Cũng như hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ không bao giờ quên được những ngày thơ ấu:
Trâu ơi ta bảo trâu nàyTrâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta,Cái cày nối nghiệp nông gia,Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu, đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là một trong mười lăm lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người.
Con trâu cũng có mặt trong lễ hội đình đám Việt Nam như tục chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), tục đâm trâu ở Tây Nguyên, nhưng từ lâu lắm rồi người Đồ Sơn đã lưu truyền câu ca dao cổ:
Dù ai buôn đâu, bán đâuMồng chín tháng tám chọi trâu thì vềDù ai bận rộn trăm bềMồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu
Cũng có nhiều ý kiến về nguồn gốc ra đời của lễ hội chọi trâu đưa ra những căn cứ giải thích khác nhau, nhưng ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng. Không những thế để nói lên sự sung túc, thành công của nhà nông có câu: “Ruộng sâu, trâu nái”.
Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”. Chọi trâu không chỉ đơn thuần “hai con trâu chọi” mà nó đã trở thành tục lệ, tín ngưỡng độc đáo ở vùng biển Đồ Sơn. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng bởi những cặp trâu chọi sẽ quyết định thắng thua, thành bại cho phe giáp ngày trước, phường xã ngày nay. Người Đồ Sơn gắn lễ hội chọi trâu với việc thờ cúng thành hoàng làng với mong muốn những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cho nên ngày Hội càng trở nên thiêng liêng, trang trọng. Vào Hội, mọi người được dịp hoà mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì thế mà tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng cũng được duy trì, khẳng định.
Con trâu được xem là một con vật linh thiêng bởi vì nó nằm trong mười hai con giáp mà người Việt Nam cũng như người phương Đông dùng để tính tuổi, tính năm. Ngoài ra, chúng còn được đưa vào nhiều bức tranh của làng tranh Đông Hồ nổi tiếng như bức tranh “Trẻ em cưỡi trâu thổi sáo”. Con vật thiêng này cũng là con vật đã in đậm vào kí ức tuổi thơ khi nhớ về làng quê. Nhà thơ Giang Nam đã ghi nhận kí ức tuổi thơ khi nhớ về quê hương:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trườngYêu quê hương qua từng trang sách nhỏAi bảo chăn trâu là khổTôi mơ màng như chim hót trên cao.
Ngày nay, có rất nhiều máy móc hiện đại đã xuất hiện khắp nơi trên cánh đồng làng quê Việt Nam những con trâu vẫn là con vật gắn bó thân thiết với người nông dân. Trâu luôn là con vật không thể thiếu ở làng quê Việt Nam - con vật linh thiêng trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt Nam. Con vật thiêng ấy sẽ mãi mãi in đậm trang kí ức của người dân Việt, nhất là những người xa xứ.
Con trâu là hình ảnh gắn liền với làng quê Việt Nam, với những khóm tre, với đồng ruộng và với người nông dân chân lấm tay bùn. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam.
Cha ông ta vẫn truyền tai nhau rằng “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đối với những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì con trâu chính là gia tài đáng giá hơn cả.
Về nguồn gốc xuất xứ của trâu tại Việt Nam có rất nhiều tài liệu, tuy nhiên chưa có một tài liệu nào chính xác nói đến sự ra đời của trâu là như thế nào. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy.
Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút.
Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. Trâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền.
Sừng của một con trâu khá dài và có hình dáng giống như lưỡi liềm, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc và ngắn, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Da của chúng cũng rất dày. Lông của trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai.
Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, từ công việc cày bừa, kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu… đều đến “lượt” của nó. Sức trâu rất dẻo dai, nó có thể làm quần quật cả ngày không biết mệt. Thời tiết thay đổi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu. Nên đến mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con.
Đối với người nông dân thì con trâu chính là cơ ngơi quan trọng. Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu cũng là một món đặc sản rất nổi tiếng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người. Đặc biệt sự xuất hiện của trâu trong SEA Games 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình đáng đáng trân trọng.
Trâu cũng gắn liền với nhiều kỉ niệm tuổi thơ của trẻ em nông thôn, theo các em lớn lên từng ngày.
Thật vậy, mặc dù hiện nay xuất hiện nhiều loại máy móc, phương tiện hiện đại nhưng trâu vẫn luôn là hình ảnh không thể thay thế được của người nông dân. Nó luôn là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất. Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người Việt Nam.
Bao đời nay, hình ảnh con trâu lầm lũi kéo cày trên đồng ruộng là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi đối với người nông dân Việt Nam. Vì thế, đôi khi con trâu đã trở thành người bạn tâm tình của người nông dân:
Trâu ơi ta bảo trâu nàyTrâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.Cấy cày vốn nghiệp nông giaTa đây trâu đấy ai mà quản công...
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Trâu rừng là tổ tiên của các loài trâu nhà, sinh ở vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa thấp ẩm, hiện còn tồn tại ở miền Trung nước ta. Khoảng 5 - 6 ngàn năm trước, trâu đã thuần hóa cùng với sự ra đời nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ đã biết săn bắt trâu, thần hóa chúng để giúp con người trong việc cày cấy.
Trâu là động vật thuộc lớp thú, màu da thường là màu đen với lớp lông mao bao phủ toàn thân. Da trâu rất dày, có lông tơ như chiếc áo choàng. Thấp thoáng trong bộ áo đẹp đẽ là một làn da căng bóng mỡ. Trâu có một cái đuôi dài, thường xuyên phe phẩy như cái quạt của con người để đuổi ruồi và muỗi. Hai tai dài giúp nó nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Người nông dân có thể nhận biết sự lành, dữ ở loài trâu một phần nhờ đôi sừng trên đầu. Trâu có đôi sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu làm dáng và tự vệ chống lại kẻ thù. Trâu có một đặc điểm rất nổi bật là không có hàm răng trên, có thể vì vậy mà trâu phải nhai lại thức ăn. Không như các động vật khác, nó có một kiểu ngủ rất đặc biệt. Hai chân trước gập vào trong, đầu ghé lên đó để ngủ.
Mỗi năm chúng chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con. Trâu nuôi con bằng sữa tiết ra từ tuyến vũ. Trâu con gọi là nghé, nghé sơ sinh nặng khoảng 22 - 25kg. Khi mới sinh ra khoảng vài giờ đến một ngày, nghé có thể đứng thẳng, vài hôm sau có thể mở mắt, đi lại theo mẹ. Nghé lớn rất nhanh và chưa có sừng, lớn lên sừng mới nhú dần ra nhưng các bộ phận bên ngoài.
Trâu là một động vật rất có ích, là người bạn của nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc, Trên con đường làng sáng tinh mơ hay giữa trưa hè nắng lửa, trâu vẫn cần cù nhẫn nại, mải miết làm việc cùng với người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao? Thật vậy, trâu có tầm quan trọng không nhỏ trong đời sống người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào văn học dân gian với những câu ca dao quen thuộc:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhàTrong ba việc ấy thật là khó thay
Trâu cũng có thể cung cấp sữa cho con người. Mỗi con trâu có thể cho 400 - 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt. Da trâu tuy không tham gia vào việc làm ra những sản phẩm độc đáo như giày dép, túi xách như một số loại da khác vì đặc điểm da trâu cứng nhưng có thể làm mặt trống. Những chiếc trống gắn bó thân thiết với học sinh, với nhà trường và các lễ hội. Sừng trâu cũng có thể làm tù và, đồ thủ công mỹ nghệ. Phân trâu là phân bón rất tốt.
Không chỉ gắn bó với người nông dân, trâu còn góp phần tạo nên những kỉ niệm đẹp tuổi thơ ở khắp mọi vùng quê đất Việt. Trâu là người bạn thân thiết với trẻ em nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu. Nhà thơ Giang Nam trong bài “Quê hương” đã là người trong cuộc để nói với lũ trẻ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường, Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ. “Ai bảo chăn trâu là khổ?”Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Trong lúc các chú trâu thong thả gặm cỏ hay đầm mình trong dòng mương mát rượi, thì lũ trẻ bày trò chơi trận giả. Cũng có lúc ta gặp cảnh thật yên bình, yên ả: các cậu bé, cô bé chăn trâu nằm nghỉ ngơi trên lưng trâu ngắm cảnh diều sáo vi vu trên bầu trời. Hình ảnh tuyệt vời của trẻ thơ chăn trâu được các nghệ nhân đưa vào tranh Đông Hồ. Nhìn tranh, ta lại nhớ câu thơ của nhà vua Trần Nhân Tông trong “Thiên trường vãn vọng”: “Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết”. Và cũng có thể, trên cánh đồng lúa, ta còn bắt gặp những em bé nông thôn vừa chăn trâu, vừa học bài. Thời thơ ấu ở làng quê thật đẹp biết bao!
Ngày nay, khi nông thôn đổi mới, máy móc nhiều cũng là lúc trâu được nghỉ ngơi. Còn nhớ những ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu thì mới thấy cái giá trị khi có trâu. Đặc biệt, trâu còn trở thành biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân lao động.
Biết bao thế kỉ đã trôi qua, có lẽ từ khi nền văn minh lúa nước của người Việt khởi nguồn thì loài trâu cũng đã trở thành báu vật của người nông dân. Trên nền bức tranh thiên nhiên của làng quê Việt, bên những cánh đồng xanh tốt, thẳng cánh cò bay, dưới lũy tre làng luôn có hình ảnh quen thuộc của con trâu hiện diện. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là ta đã giữ gìn một biểu tượng văn hóa truyền thống của người Việt.
Con trâu là đầu cơ nghiệp. Đó là những suy nghĩ và tình cảm của người nông dân dành cho con trâu yêu quý của mình. Con trâu là cánh tay phải của người nông dân. Từ bao đời nay, con trâu đã trở thành quen thuộc và gần gũi với xóm làng, đồng ruộng. Trâu là bạn nhà nông, được người nông dân nâng niu, chăm sóc.
Trâu thuộc lớp thú có vú, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa. Lông tơ màu sẫm hoặc đen, thỉnh thoảng có một số ít con màu trắng. Bộ lông tơ ấy dù mọc dày đến đâu chăng nữa thì vẫn bị thưa dần bởi ánh nắng và cái ách cày trên đồng ruộng, để rồi thấp thoáng trong lớp lông ấy là lớp da căng bóng, nhẵn lì. Thân hình trâu vạm vỡ, chân to và ngắn, bụng to, mông dốc, đầu vú nhỏ, đuôi tựa cái chổi luôn ngoe nguẩy, mắt to và lồi, sừng trâu cong hình lưỡi liềm, cũng có con sừng dài và cong vút. Người ta thường phân biệt trâu lành hay trâu dữ nhờ đôi sừng và cặp mắt. Sừng dài và cong cùng cặp mắt đỏ ngầu ở khóe thì thường là trâu dữ, cần phải có biện pháp thuần phục. Trâu cái thường nặng từ 350 - 400 kg, trâu đực thường nặng từ 400 - 450 kg, có con lên đến 600 - 700 kg.
Trâu ba tuổi đã có thể đẻ lứa đầu, có con đến bốn tuổi mới đẻ được. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỷ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 - 45%, ở đồng bằng là 20 - 25%. Một đời trâu cái thường cho 5 - 6 nghé, nghé sơ sinh nặng 20 - 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi, trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi. Lúc đó, trâu đã có 8 răng cửa. Đặc điểm nổi bật ở trâu là chỉ có một hàm răng, vì vậy trâu phải nhai lại thức ăn.
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Lực kéo trung bình trên ruộng từ 70 - 75kg, bằng 0,36 - 0,40 mã lực. Trâu loại A mỗi ngày cày 3 - 4 sào ruộng, trâu loại B mỗi ngày cày 2 - 3 sào, trâu loại c mỗi ngày cày độ 1,5 - 2 sào.
Trâu không những giúp người nông dân kéo cày, kéo xe mà trâu còn cho thịt, cho sữa và cho phân. Trâu có thể cho 400 - 500kg sữa trong một chu kỳ vắt. Trong 24 giờ, trâu 2 răng cửa thải ra 10kg phân, trâu 4 răng cửa thải 12 - 15kg và trâu trưởng thành thải ra 20 - 25kg. Phân trâu là chất dinh dưỡng chủ yếu cho cây trồng.
Trâu thật có ích nên người nông dân luôn coi trâu là gia sản của mình. Chẳng phải nhà nông nói:
Cấy cày vốn nghiệp nông giaTa đây trâu đấy ai mà quản côngBao giờ cây lúa còn bôngThì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Hết mùa vụ trâu được nghỉ ngơi, được con người chăn dắt, được hưởng phút thanh nhàn sau những ngày lam lũ. Người tắm mát cho trâu, máng rơm, máng nước luôn chực sẵn mỗi ngày. Chuồng trại của trâu ngày nay cũng được khang trang, rộng rãi. Không những thế, trâu được người đưa đi dự hội hè, dự hội chọi trâu trong dịp tết đến xuân về.
Trâu là biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn đến Việt Nam là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam thật có ích, thật đáng yêu. Trâu còn là đề tài của thơ ca, nhạc họa:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng Bóng chiều man mác có đường không Mục đồng sáo vẳng trâu về hết Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Trần Nhân Tông)
Ngày nay, đất nước ta đang phát triển ngành trồng lúa, dẫu cho máy cày hay máy kéo hiện đại xuất hiện nhưng con trâu vẫn là con vật thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân Việt Nam.
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Con trâu - người bạn thân thiết cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân, cùng người nông dân đi khắp cánh đồng để xới đất đai, cùng chung vui niềm vui ngày được mùa. Con vật này đã trở thành thân thuộc và không thể thiếu ở làng quê Việt Nam.
Không ai biết chính xác nguồn gốc của loài trâu ngày nay. Người ta chỉ biết trâu xuất hiện nhiều ở những nước châu Á như Pa-xki-tan, Băng-la-đét, Nê-pa, Thái Lan… Và đặc biệt ở Việt Nam người ta tìm thấy di tích hóa thạch của trâu cách đây vài chục triệu năm ở các hang động miền Bắc nước ta. Trâu theo khoa học thuộc lớp Mammalia, ngành Chordata, họ bò, bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Đa số trâu Việt Nam hiện nay có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Trâu được phân loại theo giống đực và giống cái. Con đực tầm vóc lớn, dài đòn, trước cao, sau thấp. Con cái tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 - 500kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu đực dài, to vừa phải, trâu cái đầu thanh, dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, nổi rõ mạch máu. Mắt to tròn, tròng đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng; mũi kín, bóng, ướt. Miệng trâu rộng, răng đều khít, không sứt mẻ. Điểm đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dai, dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, ngấn sừng đều, rỗng ruột. Phần cổ và thân trâu có những đặc điểm sau: cổ dài vừa phải; ức rộng, sâu, lưng dài từ 1 - 1,5m hơi cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳn; mông nở rộng, to. Chân trâu rất khỏe, vững chắc để đỡ cả thân người, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Đuôi trâu to, dài, phần đuôi có túm lông lúc nào cũng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da trâu hơi mỏng nhưng bóng láng, màu xám đen. Lông đen, cứng, sát vào da giúp điều hòa nhiệt độ trong những trưa hè oi bức ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung, trâu có thân hình khỏe khoắn, thích hợp với công việc đồng áng cực nhọc.
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Khi đó, con trâu chính là trợ thủ đắc lực của người nông dân.
Nhắc đến con trâu chúng ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ. Trâu là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú.
Trâu cái nặng trung bình từ 350 - 400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành. Còn trâu đực nặng từ 400 - 450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành.
Trâu là một động vật rất có ích, là người bạn của nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc, Trên con đường làng sáng tinh mơ hay giữa trưa hè nắng lửa, trâu vẫn cần cù nhẫn nại, mải miết làm việc cùng với người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao? Thật vậy, trâu có tầm quan trọng không nhỏ trong đời sống người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào văn học dân gian với những câu ca dao quen thuộc:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhàTrong ba việc ấy thật là khó thay
Con trâu cũng có một vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu:
Trâu ơi ta bảo trâu nàyTrâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta,Cái cày nối nghiệp nông gia,Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ngoài ra trâu con trâu gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu, đâm trâu. Chúng cũng là một biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Như vậy, trâu chính là loài động vật có ích trong cuộc sống của con người.
Trâu ơi ta bảo trâu này:Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.Cấy cày giữ nghiệp nông gia,Ta đây trâu đấy, ai mà quản công.Bao giờ cây lúa còn bông,Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Hình ảnh con trâu vốn không còn xa lạ gì nữa với mỗi người dân Việt Nam.
Trâu (miền Trung gọi là tru) là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp thú có vú. Chúng thường sống hoang dã ở Nam Á, Đông Nam Á và miền bắc nước Úc. Còn ở Việt Nam, chúng thường được nuôi với số lượng rất lớn.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bộ lông của chúng có màu xám hoặc xám đen. Thân hình to khỏe và vạm vỡ. Bụng to, mông dóc, đuôi dài thường xuyên phe phẩy. Bầu vú nhỏ và đặc biệt là đôi sừng hình lưỡi liềm cứng và nhọn có thể trở thành một loại vũ khí tự vệ cho chúng khi gặp phải kẻ thù.
Chúng gồm hai loại phổ biến là trâu trắng và trâu đen. Việc phân loại này được dựa theo màu sắc của lông. Trâu trắng là loại trâu có lông màu trắng ngà. Người ta cho rằng trâu trắng thường mang lại may mắn. Nhưng loài trâu này rất hiếm gặp. Còn trâu đen thì có bộ lông màu đen xám, chiếm số lượng áp đảo hơn cả.
Về tập tính của loài trâu, có một điểm vô cùng nổi bật như: Trâu có tập tính nhai lại khi ăn, thức ăn được đưa vào dạ cỏ và dạ tổ ong, phần thức ăn không tan được đưa lại khoang miệng để trâu nhai lại, phần tan vào các dạ lá sách, dạ túi khế để tiêu hóa. Điều này thật thú vị! Chúng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để tiêu hóa thức ăn nhưng lại không bao giờ cảm thấy đói. Ngoài ra, trâu là loài sống theo bầy đàn. Chúng thường sống thành một gia đình lớn tại các vùng đầm lầy, thung lũng.
Về sinh sản, hằng năm trâu đẻ hai lứa. Mỗi lứa chỉ cho ra đời một con con. Trâu con mới chào đời được gọi là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 - 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển.
Về đặc điểm, trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng rất dày và cứng cáp. Có lẽ, khi mùa đông đến, loài trâu không sợ lạnh cũng chính vì bộ da của chúng. Trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng dài. Ở một con trâu trưởng thành, cặp sừng này có thể rất dài. Đôi mắt của chúng to và trông lúc nào cũng lờ đờ như thiếu ngủ. Trong khoang miệng không có hàm trên. Hầu hết trâu đực có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thịt trâu dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu không có nhiều dinh dưỡng như sữa bò.
Về giá trị vật chất, loài trâu gắn với người nông dân từ bao đời nay. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Chúng chủ yếu cung cấp sức kéo cho con người: giúp kéo xe, kéo cày cho người nông dân khi ngoài đồng. Ngoài ra, ngày nay, thịt trâu cũng trở thành một món đặc sản khá nổi tiếng. Da trâu cũng có thể được dùng làm da các loại túi, ví, thời trang. Về giá trị tinh thần, con trâu chính là người bạn đồng hành với người nông dân trong công việc lao động vất vả. Một số nơi, còn tổ chức lễ hội mà con trâu chính là nhân vật chính như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Con trâu cũng chính là một biểu tượng văn hóa của người nông dân Việt Nam.
Cho dù xã hội ngày càng hiện đại nhưng đối với những người nông dân Việt Nam, con trâu mãi là một người bạn gắn bó trong công việc lao động của họ.
Loài trâu chúng tôi quanh năm làm lụng vất vả cực nhọc cùng với người nông dân ngoài đồng ruộng. Hình ảnh của chúng tôi có lẽ đã không còn xa lạ gì với người dân Việt Nam. Nhưng không phải ai cũng có thể hiểu hết toàn bộ những đặc điểm và tập tính của chúng tôi. Chính vì vậy, tôi sẽ giới thiệu cho các bạn toàn bộ về loài trâu chúng tôi.
Loài Trâu là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp Thú có vú. Đối với nguồn gốc, xuất xứ của loài trâu ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu ghi chép. Tuy nhiên chưa có một tài liệu nghiên cứu nào cho biết chúng tôi ra đời chính xác vào thời điểm nào. Có lẽ, chúng tôi phải có mặt trên trái đất từ rất lâu rồi. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Còn ở Việt Nam do tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy. Chúng tôi cũng giống như các loài vật khác đều có giống đực và giống cái. Cả hai đều có những điểm chung về tập tính nhưng lẽ dĩ nhiên sẽ khác nhau về ngoại hình. Một con trâu đực như tôi sẽ có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thớ thịt sẽ dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu không có nhiều dinh dưỡng như sữa bò. Hằng năm, những con trâu cái sẽ đẻ hai lứa. Mỗi lứa chỉ cho ra đời một con con. Những con trâu mới chào đời sẽ được gọi với một cái tên rất đáng yêu là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 - 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển.
Còn về tập tính sinh sống của chúng tôi, chắc hẳn sẽ gây ngạc nhiên cho con người. Chúng tôi có tập tính nhai lại. Vậy nhai lại là gì? Hiểu đơn giản quá trình nhai lại gồm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất chúng tôi ăn thức ăn thô và nuốt vào dạ dày. Giai đoạn thứ hai, chúng ợ thức ăn đã phân hủy một phần trong dạ dày trở lại miệng để nhai lại. Điều này giúp cho chúng tôi không bao giờ cảm thấy đói cả. Thật thú vị phải không?
Mỗi loài vật đều có những đặc điểm ngoại hình riêng, và chúng tôi cũng vậy. Mỗi con trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng tôi rất dày và cứng cáp. Chính vì vậy mà khi mùa đông đến chúng tôi chẳng cảm thấy lạnh. Loài trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng. Ở một con trâu trưởng thành, cặp sừng này có thể rất dài. Đôi mắt của chúng tôi thì to nhưng trông lúc nào cũng lờ đờ như thiếu ngủ. Trong khoang miệng không có hàm trên. Tuy vậy mà chúng tôi vẫn ăn rất khỏe. Nhưng thức ăn chủ yếu chỉ là rơm hoặc cỏ.
Đối với những người nông dân, loài trâu chính là trợ thủ đắc lực của họ. Lực kéo trung bình của một con trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Chúng tôi được phân loại như sau: Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C khoảng 1,5 - 2 sào. Không chỉ trong công việc cày bừa, loài trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng. Trên đường xấu, trâu có thể kéo với tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 - 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 - 1m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km.
Ngoài đời sống vật chất, loài trâu cũng vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Chúng tôi được họ đưa vào 12 con giáp - đơn vị để tính năm hay tính tuổi tác. Loài trâu còn được coi là biểu tượng cho nền nông nghiệp lúa nước. Cũng như gắn với cơ nghiệp của người nông dân. Con trâu cũng được con người đưa vào rất nhiều bài ca dao, câu hát và bức tranh nữa:
Chú Cuội ngồi gốc cây đaĐể trâu ăn lúa gọi cha ời ờiCha còn cắt cỏ trên trờiMẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng
*
Hỡi cô cắt cỏ bên đồngNuôi trâu cho béo làm giàu cho chaGiàu thì chia bảy chia baThân em là gái được là bao nhiêu?
Thế mới thấy được tầm quan trọng của chúng tôi đối với con người. Trên đây là những đặc điểm quan trọng nhất về loài trâu chúng tôi. Chắc hẳn sẽ giúp mỗi người đọc hiểu rõ hơn về loài trâu.
....
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Câu tục ngữ đã nhấn mạnh vai trò vị trí của con trâu trong đời sống sinh hoạt của người nông dân Việt Nam.
Ở làng quê Việt Nam, thấp thoáng dưới bóng tre xanh là những mái nhà trai với chuồng trâu bên cạnh. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, có màu xám đen, thân hình vạm vỡ, sừng to, công như hình lưỡi kiếm.
Con trâu gắn liền với người nông dân như bóng với hình. Trâu cùng người nông dân ra đồng để kéo cày, bừa đất, chở lúa … Dù dưới cái nắng gay gắt chói chang hoặc dưới những cơn mưa tầm tã, trâu vẫn gồng mình kéo chiếc cày cắm sâu xuống đất bùn, để cày xới đất.
Mỗi ngày trâu có thể cày từ hai đến ba sào ruộng. Tiếp công việc cày ruộng là công việc bừa đất. Với chiếc trục bừa dài trên hai mét có gắn những bánh xe răng cưa, trâu sục bùn, xào đất, vùi cỏ tạo cho đất tơi xốp.
Ngoài cày ruộng, bừa đất, sức mạnh của trâu được dùng vào công việc kéo xe, chở lúa vào mùa thu hoạch. Trên đường làng gập ghềnh trâu lầm lùi, chậm chạp kéo xe đẩy lúa về sân phơi.
Ngoài việc tận dụng sức kéo, ở một số nơi hiện nay trâu được nuôi để lấy sữa và lấy thịt. Sữa và thịt trâu là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Trâu có thể cho 45% thịt và 400 đến 500 kg sữa trong một chu kỳ vắt. Ngoài thịt và sữa, da trâu, sừng trâu là mặt hàng mà các nhà thủ công mỹ nghệ rất ưa chuộng. Phân trâu giúp bón xanh đồng ruộng, cải tạo đất trồng.
Trâu với người vất vả trên đồng ruộng nên trong các lễ hội ở đình làng cũng không thiếu bóng dáng của con trâu. Ở Hải Phòng có lễ hội chọi trâu. Ngay từ đầu năm, các làng xã phải kén chọn trâu tốt với tiêu chuẩn rất gắt gao: cổ dài, đầu nhỏ, xoáy tròn, lưng nhô, sùng cùng, mắc tròn,…Trước khi thi đấu phải làm lễ trình trâu với đức tôn thần. Lễ chọi trâu ở Hải Phòng được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10 tháng tám âm lịch. Người ta thường nhắc nhau qua câu:
Dù ai buôn đâu bán đâuMồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Trâu với người chẳng những gắn bó với nhau trong công việc đồng áng mà còn cả trong cuộc sống từ lúc tuổi còn thơ. Trẻ chăn trâu thường cởi trần trùng trục, da rám nắng, ngồi ngất ngưởng trên lưng trâu trong bộ áo bà ba giản dị trên đồng cỏ xanh là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, yên ả ở làng quê Việt Nam từ bao đời nay.
Ở làng quê trâu với người gắn bó với nhau từ tuổi ấu thơ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Trâu mang lại nhiều lợi ích cho con người và thực sự trở thành bạn thân của người nông dân. Hình ảnh con trâu trong đời sống con người có ý nghĩa vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, in đậm trong văn hóa và lối sống của con người Việt Nam.
“Làm ruộng không trâu, làm giàu không thóc”. Nhân dân ta sử dụng cách nói ấy để đề cao vai trò của trâu trong cuộc sống. Hơn nữa, trâu còn là con vật bình dị, thủy chung, cần cù như người bản tính của con người Việt Nam. Vậy nên, nhắc đến ruộng đồng nước Việt, người ta không thể nhắc đến hình ảnh con trâu làng quê.
Các giống trâu nhà hiện nay đều xuất phát từ trâu hoang dã. Trâu nhà được thuần hóa đầu tiên ở Ấn Độ và Pakistan cách đây 5.000 năm và chúng cũng được thuần hóa tại Trung Quốc khoảng 4000 năm. Người Việt cổ đã sớm thuần hóa trâu, bắt đầu từ hậu thời kỳ đồ đá mới cách đây khoảng 4,5 ngàn năm để giúp nghề trồng lúa nước.
Trâu là một loài động vật thuộc họ Trâu bò (Bovidae), bộ nhai lại, guốc chẵn, nằm trong lớp thú có vú nhóm sừng rỗng. Trâu Việt Nam đa số là trâu rừng thuần hóa, màu xám đen. Ở một số vùng cũng có trâu xám cũng gọi là trâu bạn nhưng không nhiều. Trâu cao trung bình 1,2m; nặng 400-700kg.
Bao phủ cả thân mình trâu là bộ da trơn láng, thường nhơn nhớt bùn đất để giữ cho da luôn ẩm ướt. Sừng trâu rỗng, cong hình lưỡi liềm, màu trắng ngà. Tuy chỉ có tám răng cửa nhưng trâu không gặp khó khăn trong việc tiêu hóa. Bởi trâu được bù đắp thiếu sót bằng một cái dạ cỏ. Đó là dạ dày gồm bốn túi, giúp chứa rất nhiều thức ăn chưa nghiền nát. Khi nằm nghỉ ngơi, trâu có thể ợ lên nhai lại rồi mới tiêu hóa hẳn.
Trâu cái ba tuổi trẻ lứa đầu. Mỗi con trâu trong đời đẻ năm đến sáu lứa. Trâu con gọi là nghé. Nghé sơ sinh nặng 22-25gk. Sau 2-3 năm, trâu nghé trưởng thành và có thể giúp người nông dân kéo cày.
Con trâu là biểu tượng của làng quê Việt Nam. Hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau” luôn hiện hữu trong tâm trí người dân Việt Nam ta. Bởi với truyền thống nông nghiệp, con trâu - cái cày đối với con người là vô cùng quan trọng. Trâu là sức kéo không thể thiếu trong việc đồng áng. Lực kéo của trâu là 0,34-0,4 mã lực. Tức là một ngày trâu cày khoảng hai sào ruộng và kéo khoảng 700kg hàng hóa.
Trâu rất gần gũi với người Việt. Ngoài việc nuôi trâu để lấy sức kéo, người ta còn nuôi trâu để lấy thịt, sữa và phân bón. Sữa trâu tuy không thông dụng lắm nhưng cũng góp phần vào bữa ăn của người nông dân và còn dùng để chế biến thành những món đặc sản nữa. Phân trâu thì được sử dụng để bón cho cây, vừa tiện lại vừa rẻ. Một con trâu thải ra 15kg phân mỗi ngày. Ngoài ra, người ta còn lấy sừng trâu để làm đồ mĩ nghệ. Da trâu lấy làm mặt trống hay các mặt hàng gia thuộc. Nhìn chung, trâu ta rất nhiều giá trị về thực phẩm cũng như hàng hóa. Vì vậy dân ta có câu: “muốn giàu nuôi trâu cái, muốn lụn bại thì nuôi bồ câu”.
Con trâu sớm hôm gắn bó với người nông dân. Từ khi trời vừa hửng sáng, trâu đi theo bác nông dân ra đồng:
Trâu ơi ta bảo trâu nàyTrâu ăn no cỏ trâu cày với taCấy cày vốn nghiệp nông giaTa đây, trâu đấy ai mà quảng công
Có thể nói, trong các loài gia súc, con trâu vẫn là khổ cực nhất. Vết hằn sâu trên da thịt nó, nơi dưới đặc chiếc ách cày qua bao năm tháng có thể chứng minh được điều đó. Chẳng phải người ta có câu “làm thân trâu ngựa” để chỉ những việc cực nhọc, vất vả tột cùng đó sao? Thế mà trâu vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề so đo, tính toán gì. Bởi bản tính của con trâu là hiền lành, chăm chỉ.
Qua giai đoạn cày bừa, trâu tuy đỡ khổ hơn một chút nhưng trâu lại phải kéo những núi hàng hoặc cả xe đầy người. Câu tục ngữ “Lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu” cho ta thấy trâu là phương tiện giao thông rất phổ biến ở các vùng nông thôn.
Trâu gắn liền với mùa màng nên cũng dễ hiểu thôi nếu người ta cho trâu là biểu tượng của sự sung túc. Đồng bào Chăm, Hơ-mông, có lễ hội đâm trâu vào tháng 3,4 âm lịch. Ngày thứ nhất con trâu được cột ở giữa sân. Kế bên là một cây nêu. Mọi người ca hát, nhảy múa chung quanh. Ngày thứ hai, thanh niên trai tráng sẽ mổ trâu trong tiếng chiêng, tiếng trống thập thùng. Sau khi đâm trâu, thịt trâu được sẽ ra cho từng nhà. Còn phần to nhất sẽ mang lên nhà rông cùng ăn. Danh vọng, sự giàu có của gia đình bản làng thể hiện qua sự béo tốt của chú trâu.
Truyền thuyết dân tộc Chăm kể lại rằng có một người mẹ sinh ra một đứa bé kháu khỉnh. Thế nhưng thần Sư tử - vị thần bảo hộ của dân tộc lại muốn ăn thịt đứa bé ấy. Để cứu đứa bé thoát khỏi số mệnh, mọi người bàn nhau dùng một con trâu trắng thay thế. Từ đó, để tỏ lòng biết ơn đối với sự hi sinh của trâu, cứ bảy năm một lần đến tháng bảy âm lịch Chăm, người ta lại tổ chức lễ hội tế thần sư tử với con trâu linh thiêng để cầu bình an, mưa thuận gió hòa.
Bên cạnh đó, con trâu được dùng làm sính lễ của đàng trai khi hỏi cưới. Đối với dân tộc Kinh, ở vùng Đồ Sơn có lễ hội chọi trâu. Những con trâu vạm vỡ, khỏe mạnh nhất của làng được chọn ra, thi thố với nhau. Trâu bên nào thắng, tức là hút bị thương đối thủ là làng đó sung túc giàu mạnh hơn.
Trâu Việt Nam xuất hiện nhiều trong thơ ca và tranh vẽ. Nhất là cùng với những chú mục đồng miệng thổi sáo du dương. Ở nông thôn công việc thường nhất của các em bé là chăn trâu nên trâu có ấn tượng rất sâu sắc đối với tuổi thơ. Con trâu là cái hồn của làng quê Việt Nam. Không ồn ào, hăng sức, trâu cứ lững thững tiến vào tâm thức người dân Việt.
Trâu, bò làm việc mỗi ngày cho ăn ba lần: sáng, trưa, chiều. Vào những ngày làm việc ban đêm người ta còn cho ăn một số thức ăn bổ sung như cám, thức ăn hỗn hợp, cháo, có thể uống thêm nước đường… Sau các giờ làm việc, chúng ta cần xoa bóp vai cày trong vài phút, bắt ve, cạy đất trong móng chân, đất bùn bám trên mình trâu bò. khi trâu bị thương, cần vệ sinh sạch sẽ các vết thương, bôi thuốc sát trùng cẩn thận vào chỗ vết thương.
Mùa hè, cho trâu đầm tắm hằng ngày, nhất là đối với trâu vốn chịu nóng kém, thích bóng râm. Cho trâu làm việc ngoài nắng 1-2h nên cho chúng nghỉ giải lao, gặm cỏ, uống nước. Chuồng trại cần thoáng mát, tránh mưa tạt, gió lùa. Đặc biệt là mùa đông, chuồng trại không che chắn khi gặp trời gió rét đột ngột, gió lùa có thể làm cho trâu bò bị cảm lạnh, viêm phổi và chết.
Mỗi con trâu cần 4-6m² diện tích nền chuồng. Chuồng phải khô ráo, dễ làm vệ sinh, không bị ứ đọng nước. Nền chuồng nên xây bằng xi măng và nên có mùng để che muỗi. Có một số nơi không có truồng thường cho trâu bò đầm dưới sình để tránh ruồi muỗi nhưng dễ bị kí sinh trùng và bệnh ngoài da.
Trâu thường ăn một lượng cỏ tương bằng 1/10 trọng lượng cơ thể và có thể uống 30-40 lít nước mỗi ngày. Nên định kì tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm cho trâu như: tụ huyết trùng, lở mồm long móng. Muốn cho trâu bò làm việc tốt, dai sức ta phải cho trâu bò nghỉ ngơi, hợp lí, tránh cho trâu bò làm việc quá sức. Đối với trâu bò làm việc nhiều, sức khỏe giảm sút, gầy gò cần phải quan tâm đến việc bồi dưỡng bằng các loại cỏ tươi, thức ăn tinh bột hay bổ sung các khối bánh u-rê mật đường giúp trâu bò mau lấy lại sức…
Ngày nay, khi máy móc đã thay sức kéo của trâu bò, hình ảnh con trâu làng quê lui về một vị trí khiêm nhường trong đời sống và lao động của con người Việt Nam. Thế nhưng, số lượng trâu bò nuôi trên cả nước vẫn còn rất lớn. Trâu tiếp tục sống gần gũi, thân thiện và gắn kết với người nông dân Việt Nam.
"Trâu ta ăn cỏ đồng taTham thanh chuộng lạ dắt qua đồng ngườiĐồng người cỏ tốt nhưng hôiĐồng ta cỏ xấu nhưng bùi trâu ăn"
Từ ngàn xưa, trâu đã là người bạn thân của nông dân Việt Nam. Đây là loài động vật có lịch sử phát triển lâu đời, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người.
Theo nghiên cứu khoa học, trâu là một loài động vật thuộc họ Trâu bò (tên khoa học là Bovidae). Loài trâu hoang dã sống ở nhiều nơi trên thế giới nhưng trâu nhà thì được nuôi phổ biến nhất ở vùng nhiệt đới châu Á. Không rõ trâu xuất hiện cụ thể ở nước ta vào thời gian nào nhưng dựa trên những câu chuyện dân gian, các truyện cổ tích, tranh vẽ, thơ ca và rất nhiều các sản phẩm văn hóa khác thì có thể thấy rằng trâu đã tồn tại hàng ngàn năm.
Cũng như bao loài động vật khác, trâu gồm trâu đực và trâu cái. Đối với loài trâu ở đất nước ta thì con đực tầm vóc lớn, trước cao, sau thấp. Con cái thì có tầm vóc nhỏ hơn một chút. Cân nặng của trâu còn phụ thuộc vào giới tính và sức khỏe nhưng trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 - 500 kg. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần bao gồm: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu thường dài và to. Trán chúng khá rộng, hơi gồ ghề. Da trâu màu đen, rất khô, khá cứng, sát vào da để điều hòa nhiệt độ cơ thể tốt hơn. Ít khi có trâu màu trắng. Miệng trâu rộng, hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, nhọn và cong về phía sau. Mắt to tròn, đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng và lông mi dài. Mũi chúng lúc nào cũng bóng, ươn ướt, thể hiện trạng thái sức khỏe tốt. Trâu có bàn chân có móng và rất chắc khỏe. Đuôi trâu khá dài, lúc nào cũng phe phẩy để đuổi côn trùng. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp mọi miền trên cả nước.
Xét về vai trò, loài trâu có ý nghĩa to lớn đối với một đất nước đi lên từ nông nghiệp như Việt Nam ta. Trâu cung cấp sức kéo, giúp con người công việc cày bừa, đồng áng để phát triển kinh tế. Về mặt văn hóa, trâu biểu tượng cho vẻ đẹp của sự trung thành, cần cù, thật thà, hiền lành, gắn bó nghĩa tình với người Việt. Trâu xuất hiện trong ca dao, trong tranh vẽ, trở thành hiện tượng của nhiều ngành nghệ thuật.
Với những đặc điểm trên, ta có thể thấy rằng trâu là loài động vật đáng được coi trọng. Ngày nay, máy cày, máy bừa đã thay thế vị trí của trâu trên đồng ruộng nhưng trâu vẫn mãi là người bạn của con người Việt Nam.
....
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!